English |
Français |
Deutsch
|
Pусский
Chương
trình đón khách thăm quan khu di tích lịch sử đền hùng
Đền Hùng tỉnh Phú Thọ
là mảnh đất địa linh, nơi hội tụ hồn thiêng sông núi và tâm
linh trong mỗi người Việt Nam, bởi lẽ đây là nơi cội nguồn
của dân tộc. Cứ mỗi độ Xuân về, vào dịp giỗ Tổ mùng 10 tháng
3 (âm lịch), hàng triệu con cháu ở khắp mọi miền tổ quốc đổ
về trẩy hội, thắp nén hương thơm thành kính tri ân công đức
tổ tiên và cầu mong cho vạn sự bình an cũng như đón nhận niềm
tin về sự may mắn, thành đạt trong cuộc sống. Về với quê cha
đất tổ mọi người còn hiểu rõ hơn bao giờ hết ý nghĩa thiêng
liêng của hai chữ "đồng bào" đã kết thành sức mạnh
cho dân tộc ta trường tồn và phát triển như hôm nay.

Ngày 1:
- 8h30: Hướng dẫn viên đón quý khách từ ngã
ba Đền Hùng (cách Đền Hùng 02 Km), sau đó đưa quý khách đi
tham quan Bảo Tàng Hùng Vương (nơi trưng bày hàng ngàn hiện
vật liên quan đến thời đại Hùng Vương), dâng hương lên các
di tích trên Núi Hùng gồm đền Hạ, chùa Thiên Quang, đền Trung,
đền Thượng, mộ Tổ, đền Giếng.
-12h00: ăn trưa tại Nhà hàng Cổ Tích, nhận phòng nghỉ ngơi
tại khu nghỉ Mai An Tiêm thuộc Trung Tâm Dịch Vụ Du Lịch Đền
Hùng.
-14h00: Quý khách lên xe đi tham quan và làm lễ tại Đền Quốc
Tổ Lạc Long Quân, Đền Tổ Mẫu Âu Cơ. Sau đó Quý khách trở về
nghỉ ngơi tại Khu nghỉ .
-18h00: ăn cơm chiều tại Nhà Hàng.
-20h00 - 22h30: Đốt lửa trại (giao lưu văn nghệ, ăn thịt nướng,
uống rượi cần,...). Nghỉ đêm tại Khu nghỉ Mai An Tiêm .
Ngày 2 :
- 7h00: Ăn sáng, xe đưa Quý khách thăm quan
vườn cây Lưu niệm đặc trưng của 61 tỉnh thành trên dải đất
hình chữ S, cùng với khu vực trồng cây của các đồng chí lãnh
đạo Đảng, Nhà nước, các tổ chức, cá nhân. Thăm quan và mua
sắm hàng lưu niệm, hàng đặc sản Đất Tổ tạiKhu Trung tâm thương
mại Ngã 5 Đền Giếng . Chia tay, kết thúc chương trình thăm
quan.
Giá trọn gói:
283.000đ/khách ( áp dụng cho đoàn 30 khách trở lên)
* Dịch vụ bao gồm :
- Ăn theo chương trình, ngủ (02 người/phòng đôi, điều hòa,
khép kín), phí tham quan, thuyết minh viên theo suốt chương
trình, văn nghệ, lửa trại.
* Không bao gồm : Thuế VAT, điện thoại, giặt
là, đồ uống và các chi phí khác ngoài chương trình.
Ghi chú : Ngoài
chương trình cố định trên, chúng tôi còn có thể phục vụ Quý
khách vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày với chất lượng cung
cấp dịch vụ theo nhu cầu của Quý khách.
Rất
hân hạnh được phục vụ quý khách.!
Khu di tích lịch sử Đền Hùng
Khu di tích Đền Hùng thuộc
thôn Cổ Tích - xã Hy Cương - huyện Lâm Thao - tỉnh Phú Thọ,
là nơi thờ cúng các vua Hùng đã có công dựng nước, tổ tiên
của dân tộc Việt Nam. Đền Hùng cách trung tâm thành phố Việt
Trì 7 km về phía Bắc, cách thủ đô Hà Nội 90 km. Từ Hà Nội,
du khách có thể đến Đền Hùng bằng đường bộ theo quốc lộ 2
hoặc tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai.
Đền Hùng là di tích lịch
sử văn hoá đặc biệt quan trọng của quốc gia, được xây dựng
trên núi Hùng - thuộc đất Phong Châu - vốn là đất kế đô của
Nhà nước Văn Lang 4.000 năm trước đây. Toàn bộ Khu di tích
có 4 đền, 1 chùa và 1 lăng hài hoà trong cảnh thiên nhiên,
có địa thế cao rất ngoạn mục, hùng vĩ, đất đầy khí thiêng
của sơn thuỷ hội tụ.
Đền Hùng được xây dựng trên núi Hùng
(còn gọi là núi Cả theo tiếng địa phương hay còn có nhiều
tên gọi khác nhau: Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn,
Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn,…), có độ cao 175 m so với mặt
nước biển. Tục truyền rằng, núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng
về phía Nam , mình rồng uốn khúc thành núi Vặn, núi Trọc,
núi Pheo,…. Núi Vặn cao 170m, xấp xỉ núi Hùng. Núi Trọc nằm
giữa núi Hùng và núi Vặn, cao 145 m. Ba đỉnh núi: núi Hùng,
núi Vặn, núi Trọc theo truyền thuyết là ba đỉnh “Tam sơn cấm
địa” được dân gian thờ từ rất lâu đời.
Toàn khu di tích Đền Hùng xưa kia
là rừng già nhiệt đới, đến nay chỉ còn núi Hùng là rậm rạp
xanh tươi với 150 loài thảo mộc thuộc 35 họ, trong đó còn
sót lại một số cây đại thụ như chò, thông, lụ,…và một vài
giống cây cổ sơ như kim giao, thiên tuế,..
Từ chân núi, du khách sẽ được chiêm
ngưỡng lần lượt các di tích kiến trúc như:
1. Cổng đền
2. Đền Hạ
3. Nhà bia
4. Chùa Thiên Quang
5. Đền Trung
6. Đền Thượng
7. Đền Giếng
8. Đền Tổ Mẫu Âu Cơ
9. Bảo tàng Hùng Vương
Cổng Đền
Được
xây dựng vào năm Khải Định thứ 2 (1917). Cổng xây kiểu
vòm cuốn cao 8,5m, hai tầng 8 mái, lợp giả ngói ống. Tầng
dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cổng tầng trên
có cửa vòm nhỏ hơn, 4 góc tầng mái trang trí Rồng, đắp
nổi hai con Nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu
hai võ sỹ, một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến,
mặc áo giáp, ngực trang trí hổ phù. Giữa tầng một có đề
bức đại tự: “Cao sơn cảnh hành” (lên núi cao nhìn xa rộng).
Còn có người dịch là “Cao sơn cảnh hạnh” (Đức lớn như
núi cao). Mặt sau cổng đắp hai con hổ là hiện thân vật
canh giữ thần. |
 |
Cổng
Đền |
Đền Hạ
Tương
truyền nơi đây, Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau
nở thành 100 người con trai, nguồn gốc “đồng bào” (cùng
bọc) được bắt nguồn từ đây. Dấu tích giếng “Mắt Rồng”
là nơi mẹ Âu Cơ ấp trứng nay vẫn còn ở phía sau đền. |
Đền
Hạ được xây dựng lại trên nền đất cũ vào thế kỷ XVII
- XVIII. Kiến trúc kiểu chữ “nhị” gồm hai toà tiền bái
và hậu cung, mỗi toà ba gian, cách nhau 1,5m. Kiến trúc
đơn sơ kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái
sau dài hơn mái trước. Đốc xây liền tường với đốc Hậu
cung, hai bên đắp phù điêu, một bên voi, một bên ngựa.
Bờ nóc phẳng, không trang trí mỹ thuật. Mái lợp ngói
mũi, địa phương gọi là ngói mũi lợn.
Ngay chân Đền Hạ là Nhà bia với
kiến trúc hình lục giác, có 6 mái. Trên đỉnh có đắp
hình nậm rượu, 6 mái được lợp bằng gạch bìa bên trong,
bên ngoài láng xi măng, có 6 cột bằng gạch xây tròn,
dưới chân có lan can. Trong nhà bia trước đây đặt tấm
bia ghi lại việc tu sửa đường lên núi Hùng, hiện nay
đặt bia đá, nội dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945: |
 |
|
Đền
Hạ |
“Các Vua Hùng đã có
công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng
nhau giữ lấy nước”
Gần Đền Hạ có một ngôi chùa, xưa có
tên là Sơn cảnh thừa long tự, sau đổi là Thiên quang thiền
tự. Chùa được xây theo kiểu nội công ngoại quốc, gồm các nhà:
tiền đường (5 gian), thiêu hương (2 gian), tam bảo (3 gian)
ở phía trước, dãy hành lang, nhà Tổ ở phía sau. Các toà được
làm theo kiểu cột trụ, quá giang gối đầu vào cột xây, kèo
suốt. Mái chùa được lập ngói mũi, đầu đao cong. Bờ nóc tiền
đường đắp lưỡng long chầu nguyệt. Chùa thờ Phật theo phái
Đại thừa.
Trước cửa chùa có cây thiên tuế là
nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với cán bộ và chiến
sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản thủ đô
Hà Nội. Trước sân chùa có 2 tháp sư hình trụ 4 tầng. Trên
nóc đắp hình hoa sen. Lòng tháp xây rỗng, cửa vòm nhỏ. Trong
tháp có bát nhang và tấm bia đá khắc tên các vị hoà thượng
đã tu hành và viên tịch tại chùa.
Chùa còn có một gác chuông được xây
dựng vào thế kỷ XVII, gồm 3 gian, 2 tầng mái, 4 vì kèo cột
kiểu chồng giường kết hợp với bẩy lẻ. Các bẩy lẻ hầu như để
trơn không chạm trổ gì. Trên gác chuông có treo quả chuông,
không ghi niên đại đúc chuông mà chỉ ghi: “Đại Việt quốc,
Sơn Tây dạo Lâm Thao phủ, Sơn Vi huyện, Hy Cương xã, Cổ Tích
thôn cư phụng”. Qua đó có thể đoán quả chuông được đúc thời
Hậu Lê.
Đền Trung (Hùng Vương Tổ miếu)
Tương
truyền là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng
du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước.
Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu
- người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng,
bánh dày.
Đền được xây theo kiểu hình chữ
nhất, có 3 gian quay về hướng nam, dài 7,2m, rộng 3,7m.
Mái hiên cao 1,8m, không có cột kèo, cầu quá giang gối
vào tường, bít đốc tường hậu, phía trước mở 3 cửa. |
 |
|
Đền
Trung |
Đền Thượng và Lăng Hùng Vương
Đền
Thượng được đặt trên đỉnh núi Hùng. Tương truyền rằng
thời Hùng Vương, Vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa
Lĩnh để tiến hành nghi lễ tín ngưỡng của cư dân nông
nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận
gió hoà, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh.
Tục truyền đây còn là nơi vua
Hùng thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho người tài ra giúp
nước đánh giặc Ân. Sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc
và bay về trời, vua Hùng cho lập đền thờ vọng trên đỉnh
núi, về sau, nhân dân đặt thêm bài vị vua Hùng vào thờ
cúng. Đền Thượng có tên chữ là “Kính thiên lĩnh điện”
(Điện cầu trời) còn có tên là “Cửu trùng tiên điện”
(Điện giữa chín tầng mây). Trong Đền Thượng có bức đại
tự đề “Nam Việt triệu tổ” (Tổ khai sáng nước Việt Nam).
Đền được làm kiểu chữ Vương, kiến trúc đơn giản, kèo
cầu, không có chạm trổ, được xây dựng qua bốn cấp khác
nhau gồm: nhà chuông trống (cấp I), đại bái (cấp II),
tiền tế (cấp III) và hậu cung (cấp IV). |
Bên
phía tay trái Đền có một cột đá thề, tương truyền do Thục
Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để
thề nguyện bảo vệ non sông đất nước mà Hùng Vương trao
lại và đời đời hương khói trông nom miếu vũ họ Vương.
Cột đá cao 1,3m, rộng 0,3m, hình vuông. Đến năm 1968,
Ty Văn hoá Vĩnh Phú tôn tạo lên bệ như hiện nay. |
 |
|
Đền
Thượng |
Lăng Vua Hùng
Lăng
Hùng Vương tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ
nằm ở phía đông Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp
thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa là mộ đất, thời Tự
Đức năm thứ 27 (1870) cho xây mộ dựng lăng. Thời Khải Định
tháng 7 (1922) trùng tu lại. Lăng hình vuông, cột liền tường,
có đao cong 8 góc, tạo thành 2 tầng mái. Tầng dưới 4 góc đắp
4 con rồng tư thế bò, tầng trên đắp rồng uốn ngược, đỉnh lăng
đắp hình “quả ngọc” theo tích “cửu long tranh châu”. Mái đắp
ngói ống, cổ diêm, 3 phía đều đắp mặt hổ phù. Ba mặt Tây,
Đông, Nam đều có cửa vòm, 2 bên cửa đều đắp kỳ lân, xung quanh
có tường bao quanh, trang trí hoa, chất liệu bằng đá. Trong
lăng có mộ Vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật dài 1,3m, rộng
1,8m, cao 1,0m. Mộ có mái mui luyện. Phía trong lăng có bia
đá ghi: Biểu chính (lăng chính). Phía trên ba mặt lăng đều
có đề: Hùng Vương lăng (Lăng Hùng Vương).
Đền Giếng (tên chữ là Ngọc
Tỉnh)
Tương
truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa (con
gái của Vua Hùng thứ 18) thường soi gương, vấn tóc khi
theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai bà có công dạy
dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên được nhân dân lập
đền thờ phụng muôn đời. Đền được xây dựng vào thế kỷ
XVIII, theo hướng Đông Nam, kiến trúc kiểu chữ công,
gồm nhà tiền bái (3 gian), hậu cung (3 gian), 1 chuôi
vồ và 2 nhà oản (4 gian), có phương đình nối tiền bái
với hậu cung.
Cổng Đền Giếng được xây vào thế kỷ XVIII, kiểu dáng
gần giống cổng chính nhưng nhỏ và thấp hơn. Cổng xây
theo kiểu kiến trúc 2 tầng 8 mái. Tầng dưới, giữa có
một cửa xây kiểu vòm, hai bên có hai cột trụ trên lắp
nghê chầu. Tầng trên giữa cổng có bức đại tự đề: “Trung
sơn tiểu thất” (ngôi miếu nhỏ trong núi). Hai bên có
đề câu đối và tượng hai võ sỹ. Mặt sau cổng đắp hổ,
mỗi con một bên. |
 |
Đền
Giếng |
ền Tổ mẫu Âu Cơ
Được
bắt đầu xây dựng vào năm 2001 và khánh thành tháng 12/2004.
Đền được xây dựng trên núi ốc Sơn (núi Vặn) theo kiến
trúc truyền thống với cột, xà, hoành, dui bằng gỗ lim,
mái được lợp bằng ngói mũi hài, tường bằng gạch bát.
Đền chính có diện tích 137m2, làm theo kiểu chữ Đinh.
Bên cạnh đền chính có nhà Tả vũ, nhà Hữu vũ, nhà Bia,
Trụ biểu, Tứ trụ, cổng Tam quan, nhà tiếp khách và hoa
viên.
Trong đền có tượng thờ Mẹ Âu
Cơ và hai Lạc hầu, Lạc tướng. Đường đi lên đền được
xây bằng 553 bậc đá Hải Lựu. |
 |
Đền
Mẫu Âu Cơ |
Bảo tàng Hùng Vương
|
Hiện
vật cổ của bảo tàng Hùng Vương |
Bảo tàng Hùng Vương được khởi công
xây dựng vào năm 1996 và được khánh thành đúng ngày khai hội
Đền Hùng năm Quý Mùi (2003) do Tổng Bí thư Đỗ Mười cắt băng
khánh thành. Với gần 700 hiện vật gốc trên tổng số hơn 4.000
hiện vật có trong Bảo tàng, 162 bức ảnh, 4 bức tranh gốm,
5 bức tranh sơn mài, 9 bức gò đồng, 5 hộp hình, một nhóm tượng
lớn và nhiều hiện vật khác được trưng bày đã khắc hoạ chủ
đề tổng quát: “Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất
Phong Châu lịch sử”.
Phần trưng bày của Bảo tàng Hùng Vương
được tập trung vào 3 chủ đề chính:
- Giới thiệu giai đoạn văn hoá Hùng
Vương bằng các hiện vật liên quan đến thời đại Hùng Vương
tìm được trên đất Phú Thọ và Vĩnh Phúc.
- Giới thiệu việc hình thành khu di
tích Đền Hùng và ý thức xây dựng khu di tích Đền Hùng của
nhân dân cả nước.
- Tình cảm của nhân dân, sự quan tâm
của người đứng đầu Nhà nước phong kiến trước đây, của Bác
Hồ và các đồng chí lãnh đạo Đảng ngày nay đối với Đền Hùng.
Đền Hùng vừa là thắng cảnh đẹp, vừa
là một di tích lịch sử - văn hóa đặc biệt quan trọng đối với
người Việt Nam. Về với Đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc,
để tự hào về dòng giống tiên rồng đang chảy trong huyết mạch
của mỗi người dân Việt Nam! |